Năm 2023 ngành tôm đối diện với “sóng to, gió lớn” khi mà giá tôm giảm sâu và diễn ra trong thời gian dài, tình hình xuất khẩu ảm đạm. Nhưng, theo nhiều chuyên gia, quý III sẽ là thời điểm le lói ánh sáng phục hồi. Nhiều đề xuất giải pháp trong cả ngắn hạn và dài hạn đã được đưa ra, với mong muốn rằng tôm Việt sẽ sớm lấy lại vị thế vốn có.

Sản xuất ảm đạm

Theo Cục Thủy sản, trong 6 tháng đầu năm, diện tích thả nuôi tôm nước lợ đạt khoảng 656 nghìn ha (tăng 6,4 % so cùng kỳ năm 2022), sản lượng đạt khoảng 467 nghìn tấn (tăng 4,1%). Mặc dù, kết quả sản xuất đạt và vượt kế hoạch đối với diện tích và sản lượng nhưng kim ngạch xuất khẩu tôm nước lợ chỉ đạt 1,56 tỷ USD. Do ảnh hưởng tác động của đại dịch COVID-19, xung đột giữa Nga và Ukraina vẫn tiếp tục kéo dài đã tác động mạnh mẽ lên chuỗi giá trị toàn cầu, nhu cầu tiêu thụ của các thị trường sụt giảm, giá nhiên liệu không ổn định, giá vật tư, thức ăn thủy sản tăng trong khi giá bán tôm nguyên liệu liên tục giảm từ tháng 4/2023 đến nay làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế và tâm lý người nuôi khi quyết định giảm quy mô hoặc tạm ngưng thả nuôi tôm các tháng cuối năm 2023, dẫn đến khả năng không đảm bảo nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu khi thị trường khôi phục dần vào cuối năm 2023 và đầu năm 2024.

thu hoạch tôm

Một trong những giải pháp mang tính “giải cứu” của ngành tôm hiện nay chính là bài toán giảm giá thành sản xuất. Ảnh: Văn Dương

Báo cáo của Cục Thú y cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2023, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ bị thiệt hại là 17.927 ha (chiếm 87% trong tổng diện tích thủy sản nuôi bị thiệt hại), tăng 7% so cùng kỳ năm 2022. Lý giải về thực trạng này, ông Tiền Ngọc Tiên, Chi Cục trưởng Chi Cục Thú y vùng VII cho biết, diện tích nuôi tôm nước lợ bị thiệt hại do diễn biến thời tiết thay đổi, độ mặn tại một số cửa sông không đủ để nuôi tôm, khiến tình hình thả giống trong những tháng đầu năm chậm hơn so năm 2022. Bên cạnh đó, giá tôm những tháng đầu năm 2023 duy trì ở mức thấp khiến các cơ sở, trang trại tôm không tối đa hóa công suất và không đầu tư vào con giống chất lượng, khiến diện tích nuôi tôm nước lợ giảm sút và không đạt sản lượng như mong muốn.

Còn về xuất khẩu tôm trong tháng 6 ước đạt 341 triệu USD, cao nhất trong 6 tháng trở lại đây. Tuy nhiên, con số này vẫn giảm 18% so cùng kỳ năm 2022, lũy kế nửa đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu tôm giảm hơn 31% so cùng kỳ năm trước, đạt gần 1,6 tỷ USD.

Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, xung đột giữa Nga và Ukraine đã tác động mạnh mẽ lên chuỗi giá trị toàn cầu, nhu cầu tiêu thụ của các thị trường sụt giảm, giá nhiên liệu không ổn định, giá vật tư, thức ăn thủy sản tăng trong khi giá bán tôm nguyên liệu liên tục giảm từ tháng 4/2023 đến nay, làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế và tâm lý người nuôi khi quyết định giảm quy mô hoặc tạm ngưng thả nuôi tôm các tháng cuối năm 2023. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến khả năng không đảm bảo nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu khi thị trường khôi phục dần vào cuối năm 2023 và đầu năm 2024.

Giải pháp bắt nhịp phục hồi

Ngày 3/7/2023, Cục Thủy sản đã có Công văn số 262/TS-NTTS gửi Sở NN&PTNT các tỉnh/thành phố trực ven biển tập trung đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường chỉ đạo nuôi tôm nước lợ các tháng cuối năm 2023.

Do đó, để ổn định sản xuất, cung cấp đủ sản lượng cho chế biến và xuất khẩu các tháng cuối năm, Cục Thủy sản đề nghị Sở NN&PTNT các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ven biển chỉ đạo các đơn vị chức năng tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm.

Người nuôi cần ổn định tâm lý, tránh thu hoạch tôm ồ ạt, duy trì thả nuôi ổn định với mật độ thưa hơn – Ảnh: Shutterstock

Thứ nhất, tiếp tục chỉ đạo linh hoạt các giải pháp triển khai kế hoạch phát triển ngành tôm nước lợ năm 2023 tại thông báo kết luận số 1626/TB-BNN-VP ngày 23/3/2023; theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, phân bổ nguồn lực thực hiện tốt nhiệm vụ quan trắc, cảnh báo môi trường tại các vùng nuôi tôm nước lợ tập trung, kịp thời khuyến cáo người dân chủ động kế hoạch sản xuất, thực hiện các giải pháp kỹ thuật phù hợp để nuôi tôm hiệu quả, giảm thiểu tối đa thiệt hại cho người nuôi; hướng dẫn các biện pháp phòng chống dịch bệnh hiệu quả, không để bùng phát bệnh dịch; tăng cường thông tin, tuyên truyền, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật để nhân rộng các mô hình nuôi nhiều giai đoạn, sử dụng chế phẩm sinh học, nuôi tuần hoàn khép kín, nuôi tôm an toàn sinh học, nuôi tôm – lúa, tôm – rừng, tôm hữu cơ, nuôi tôm công nghệ cao… để giảm giá thành, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.

Thứ hai, khuyến cáo người dân ổn định tâm lý, tránh thu hoạch tôm nuôi ồ ạt, duy trì thả nuôi ổn định với mật độ thả nuôi thưa hơn, kéo dài thời gian nuôi để tăng kích thước tôm thu hoạch, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, tăng giá bán từ đó tăng hiệu suất đầu tư.

Thứ ba, chủ động phối hợp với cơ quan, đơn vị liên quan nắm bắt tình hình diễn biến giá tôm nguyên liệu, phân tích hiệu quả sản xuất từng cỡ tôm thu hoạch, dự báo diễn biến nhu cầu của thị trường tiêu thụ, kịp thời thông tin đến chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người nuôi có kế hoạch thả giống và giải pháp phù hợp trong tổ chức sản xuất; quản lý chặt chẽ trước hiện tượng đại lý thu mua tung tin thất thiệt, ép giá người nuôi.

Thứ tư, tiếp tục có các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác và người nuôi tôm tổ chức liên kết sản xuất theo chuỗi, tối ưu hóa chuỗi sản xuất để giảm giá thành sản phẩm; phối hợp với Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh và các đơn vị có liên quan tiếp tục rà soát, nghiên cứu xây dựng mô hình thí điểm cung cấp tính dụng qua liên kết chuỗi để triển khai thực hiện; quan tâm phát triển các sản phẩm phù hợp (các phân khúc sản phẩm, đa dạng chủng loại phù hợp với nhu cầu tiêu thụ khác nhau trong bối cảnh khó khăn về kinh tế, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu) để thúc đẩy tiêu thụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

Thứ năm, thực hiện cam kết giữa các bên trong chuỗi sản phẩm thủy sản để chủ động kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và tận dụng một cách hiệu quả các chính sách hỗ trợ tài chính của Chính phủ trong sản xuất (Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản cam kết thông báo nhu cầu nguyên liệu về khối lượng, chủng loại/size sản phẩm, kế hoạch thu mua và người nuôi trồng thủy sản tổ chức sản xuất đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu).

Thứ sáu, thực hiện các biện pháp nhằm tăng sản lượng tôm nuôi, đảm bảo nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu. Đối với các tỉnh ĐBSCL, tiếp tục duy trì ổn định diện tích thả nuôi tôm sinh thái, tôm – lúa, tôm – rừng, tôm quảng canh cải tiến, kết hợp các biện pháp tăng năng suất, sản lượng nuôi ở những khu vực này để phát huy lợi thế sản phẩm tôm sú. Phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng ở những vùng có đủ điều kiện hạ tầng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật nuôi ôm thẻ chân trắng và kiểm soát tốt các khâu sản xuất; hướng dẫn kỹ thuật và giám sát người nuôi thực hiện tốt việc cải tạo ao, đầm nuôi đảm bảo thời gian ngắt vụ và mật độ thả nuôi hợp lý. Các tỉnh miền Trung và miền Bắc tập trung nuôi ôm thẻ chân trắng cao triều theo hình thức công nghiệp, thâm canh áp dụng kỹ thuật nuôi tiên tiến, chủ động sản xuất trong tất cả các khâu, đảm bảo an toàn đối với bão, lũ và biến động môi trường đột ngột.

Thứ bảy, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền hướng dẫn về các quy định của Luật Thuỷ sản 2017; Nghị định 26/2019/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn; đặc biệt quan tâm chỉ đạo, tháo gỡ các vướng mắc khó khăn và đơn giản hóa thủ tục hành chính về đăng ký đối tượng nuôi đối với tôm sú và ôm thẻ chân trắng.

Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản

Hiện nay đơn vị phối hợp các địa phương ven biển triển khai thực hiện một số đề án, chương trình đã phê duyệt như chương trình phát triển NTTS đến năm 2030, kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025, đề án tổng thể phát triển ngành công nghiệp tôm Việt Nam và đề án phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững vùng ĐBSCL… Đặc biệt, Cục Thủy sản sẽ hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương, doanh nghiệp, người dân NTTS tập trung ứng dụng khoa học, công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu… cho ngành hàng tôm.

Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Sao Ta 

Thích nghi trong tình hình mới, các doanh nghiệp ngành tôm nói riêng và thủy sản nói chung đã có những thay đổi nhất định, thể hiện qua hoạt động có bài bản, có chiến lược, có tầm nhìn lâu dài. Ngoài ra, sự liên kết trong chuỗi ngành hàng để nhằm giảm giá thành là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, sự liên kết này cần thực chất mới có hiệu quả. Liên kết thực chất là biết chia sẻ giá trị chung tạo ra, cùng tồn tại cùng phát triển. Còn nếu mắt xích nào đó, trên nền tảng ưu thế của mình, chiếm phần lớn lợi ích từ giá trị chung tạo ra sẽ khiến có mắt xích khác rơi vào khó khăn, chuỗi ngành hàng sẽ khó đi lên. Và lớn hơn nữa, về mặt quản lý nhà nước, ngành tôm phải có sự xem xét, chỉnh sửa, bổ sung phương hướng, chiến lược, giải pháp…, nhằm hoàn thiện mình hơn theo chiều sâu thì mới có thể tăng sức cạnh tranh và tồn tại lâu bền.

Hồng Hạnh

Nguồn: Tạp chí Thủy sản Việt Nam