Ðại dịch COVID-19 ập đến khiến cho nhiều ngành hàng gặp khó khăn, ngưng trệ vì giao thương gián đoạn, ngành tôm cũng không ngoại lệ. Những tháng đầu năm 2020, cả sản xuất lẫn xuất khẩu tôm đều bị tác động nghiêm trọng; thế nhưng, chỉ sau đó vài tháng, nhờ những điều chỉnh kịp thời, cục diện đã thay đổi.

Vượt khó thành công

Năm 2020, ngành tôm gặp nạn “kép” khi xuất khẩu vấp đại dịch COVID-19, còn ở trong nước, những tháng đầu năm, lĩnh vực tôm nước lợ gặp nhiều khó khăn khi phải đối mặt với hạn hán và xâm nhập mặn.

Ảnh hưởng của khô hạn, nắng nóng, thời tiết bất thường khiến tôm chết ở nhiều nơi. Trong khi giá tôm nguyên liệu có lúc giảm đến trên 30% so cùng kỳ năm 2019 khiến nhiều người nuôi rơi vào cảnh khó khăn. Để hóa giải thách thức, ngành nông nghiệp tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị quan trọng. Và tại hội nghị tôm tổ chức ở Sóc Trăng tháng 5/2020, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, phải biến nguy thành cơ, phấn đấu phát triển mạnh ngành tôm trong điều kiện khó khăn của dịch COVID-19.

Với sự vào cuộc tích cực của các cấp, ngành, địa phương, những tháng sau đó tình hình đã khởi sắc và con tôm về đích khá ấn tượng. Năm 2020, xuất khẩu ngành thủy sản đạt kim ngạch 8,6 tỷ USD, trong đó riêng mặt hàng tôm đạt 3,78 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng hơn 12,4%; xuất khẩu tôm trở thành điểm sáng của ngành thủy sản trong năm qua.

Đáng nói, các thị trường lớn của con tôm Việt Nam luôn rộng mở, duy trì tăng trưởng dương liên tục trong những tháng cuối năm và cả năm. Trong đó, Mỹ tăng 33%; EU tăng 6,1%; Hàn Quốc tăng 3,3%, Anh tăng 20,1% so năm 2019.

chiến lược nuôi tôm

2020 là một năm đầy biến động, nhưng ngành tôm vẫn duy trì được tăng trưởng – Ảnh:  Phan Thanh Cường

Chiến lược đa dạng

Có thể nói, bên cạnh việc tận dụng lợi thế từ kiểm soát tốt đại dịch COVID-19 thì thành công của ngành tôm Việt Nam phải đặc biệt kể đến những chiến lược hữu hiệu.

Cùng đó, nhằm đón bắt cơ hội tiêu thụ sau dịch bệnh, ổn định sản xuất, chuẩn bị nguồn nguyên liệu tôm trong nước cho chế biến, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu trong quý II/2020 và các tháng cuối năm, Bộ NN&PTNT đề nghị UBND các tỉnh ven biển ĐBSCL chỉ đạo các đơn vị chức năng tại địa phương triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người nuôi và doanh nghiệp; kịp thời thông tin tới doanh nghiệp và người nuôi dự báo diễn biến nhu cầu của thị trường tiêu thụ để có kế hoạch thả giống ngay cho phù hợp.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, các địa phương cần tổ chức nuôi trồng theo đúng quy mô, kế hoạch. Các hộ nuôi, doanh nghiệp cần áp dụng đồng bộ ứng dụng khoa học công nghệ mới nhất để tạo nên vùng nguyên liệu ổn định, chất lượng. Quan trọng nữa là cần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương; đặc biệt là đẩy mạnh thực hiện các quy định trong sản xuất, kinh doanh tôm giống, sản xuất và kinh doanh thức ăn tôm…

Trải qua một năm đầy biến động, ngành thủy sản cơ bản vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng và con tôm là điểm sáng trong xuất khẩu. Đây là nỗ lực lớn của các doanh nghiệp tôm Việt Nam khi đã năng động tìm kiếm, đa dạng hóa thị trường, tận dụng cơ hội từ những thay đổi tạo ra trên thị trường do dịch COVID-19, đa dạng hóa các sản phẩm phù hợp từng phân khúc khác nhau để đẩy mạnh xuất khẩu.

Thêm nữa, việc ngành tôm Việt Nam tận dụng được thay đổi xu hướng tiêu thụ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên kỳ tích. Năm 2020, xuất khẩu TTCT áp đảo trong tổng giá trị xuất khẩu tôm với 72%, trong khi tôm sú 16%, còn lại là tôm biển. Nguyên nhân là do dịch COVID-19 căng thẳng trên thế giới nên xu hướng tiêu thụ tại các thị trường tập trung vào TTCT cỡ nhỏ cho phân khúc bán lẻ, các sản phẩm tôm chế biến sẵn được ưa chuộng hơn so với các sản phẩm tươi/sống/đông lạnh. Các sản phẩm TTCT và tôm sú chế biến tăng lần lượt 14% và 24%, trong khi các sản phẩm tôm sống/tươi/đông lạnh đều giảm.

Cùng với đó là sự hỗ trợ tích cực từ các Hiệp định thương mại tự do, nhất là EVFTA có hiệu lực đã tạo lực đẩy cho con tôm Việt Nam xuất sang thị trường EU nhiều hơn khi thuế giảm mạnh. Theo Hiệp định EVFTA, thuế nhập khẩu đối với hầu hết tôm nguyên liệu (tươi, đông lạnh, ướp lạnh) vào EU sẽ được giảm từ mức thuế cơ bản 12 – 20% xuống 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực, thuế nhập khẩu tôm chế biến vào EU về 0% sau 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực.

Điểm nhấn quan trọng nữa là so với các nước đối thủ, Việt Nam có lợi thế hơn do kiểm soát tốt hơn dịch COVID-19. Trong khi các nước sản xuất tôm chính như Ấn Độ, Ecuador, Thái Lan… phải chịu những ảnh hưởng nặng nề như sản xuất, vận chuyển hàng hóa đình trệ, giá tôm giảm khiến hoạt động thả nuôi chậm, sản lượng tôm giảm thì con tôm Việt Nam hanh thông xuất ngoại.

Phan Thảo